Đăng Ký Nhãn Hiệu Với Dụng Ý Xấu Theo Luật Sở Hữu Trí Tuệ Hiện Hành

Lần đầu tiên, quy định về việc đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu đã được đưa vào Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2022, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của các chủ sở hữu nhãn hiệu thực sự. Đây là một cơ chế pháp lý quan trọng, giúp ngăn chặn các hành vi lợi dụng, chiếm đoạt nhãn hiệu và bảo vệ sự công bằng trong việc cấp và bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu.

I. CƠ SỞ PHÁP LÝ


1. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019, 2022.


2. Thông tư 23/2023/TT-BKHCN quy định chi tiết một số điều của luật sở hữu trí tuệ và biện pháp thi hành Nghị định số 65/2023/NĐ-CP.


II. NỘI DUNG


1. Nhãn hiệu là gì?


Theo khoản 16 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019, 2022 thì nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Việc đăng ký nhãn hiệu và được cấp văn bằng bảo hộ giúp ghi nhận chủ sở hữu nhãn hiệu. Đây là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân nhằm xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối nhãn hiệu.


2. Đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu được quy định như thế nào?


Hiện nay, chưa có định nghĩa cụ thể về hành vi “đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu”. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 34 Thông tư 23/2023/TT-BKHCN quy định văn bằng bảo hộ nhãn hiệu bị hủy bỏ hiệu lực do người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 96 của Luật Sở hữu trí tuệ (trong trường hợp sau đây:


- Có căn cứ cho rằng, tại thời điểm nộp đơn, người nộp đơn biết hoặc có cơ sở để biết nhãn hiệu mình đăng ký trùng hoặc tương tự đến mức khó phân biệt với một nhãn hiệu đang được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam hoặc nhãn hiệu nổi tiếng tại các nước khác cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự; và


- Việc đăng ký này nhằm lợi dụng danh tiếng, uy tín của nhãn hiệu đó để thu lợi; hoặc chủ yếu nhằm mục tiêu bán lại, cấp phép hoặc chuyển giao quyền đăng ký cho người có các nhãn hiệu nêu tại điểm a khoản này; hoặc nhằm mục tiêu ngăn chặn khả năng gia nhập thị trường của người có các nhãn hiệu nêu tại điểm a khoản này để hạn chế cạnh tranh; hoặc các hành vi trái với tập quán thương mại lành mạnh khác.


Tuy nhiên, các tiêu chí để xác định hành vi đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu hầu như chưa được định nghĩa rõ ràng theo trong các quy định pháp luật liên quan. Đơn cử:


- Ý thức chủ quan của người nộp đơn: Tại thời điểm nộp đơn, nếu người nộp đơn biết hoặc có cơ sở để biết nhãn hiệu mình đăng ký trùng hoặc tương tự đến mức khó phân biệt với nhãn hiệu của chủ thể khác, thì đơn đăng ký có thể bị xem xét dưới góc độ dụng ý xấu. Tuy nhiên, pháp luật dân sự và thương mại chưa có định nghĩa cụ thể về “biết” hoặc “có cơ sở để biết”. 


- Tiêu chí cụ thể về nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi (chỉ có định nghĩa về “nhãn hiệu nổi tiếng”).


3. Hệ quả pháp lý của đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu


Trong lần sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022, văn bản này đã bổ sung quy định về đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu tại điểm a khoản 1 Điều 96 và điểm b khoản 1 Điều 117 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019, 2022. Cụ thể như sau:


Điều 96. Hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ


1. Văn bằng bảo hộ bị hủy bỏ toàn bộ hiệu lực trong các trường hợp sau đây:


a) Người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu;”


Điều 117. Từ chối cấp văn bằng bảo hộ


1. Đơn đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý bị từ chối cấp văn bằng bảo hộ trong các trường hợp sau đây:


b) Có cơ sở để khẳng định rằng người nộp đơn không có quyền đăng ký đối tượng sở hữu công nghiệp hoặc đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu;”


Có thể thấy, pháp luật sở hữu trí tuệ đã lần đầu tiên áp dụng chế tài khi đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu. Chế tài này xuất hiện ở cả 02 giai đoạn là trước khi cấp văn bằng bảo hộ và sau khi cấp văn bằng bảo hộ. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng để cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ chối cấp văn bằng bảo hộ hoặc hủy bỏ toàn bộ hiệu lực của văn bằng bảo hộ nhãn hiệu đối với những đơn đăng ký có dụng ý xấu. 


Quy định này giúp bảo vệ quyền và lợi ích của chủ sở hữu nhãn hiệu thực sự, tạo cơ sở pháp lý để phản đối việc cấp văn bằng bảo hộ cho nhãn hiệu đăng ký với dụng ý xấu. Nhờ đó, chủ sở hữu hợp pháp có thể đòi lại quyền sở hữu, tránh thiệt hại không đáng có, bao gồm chi phí mua lại nhãn hiệu của chính mình hoặc thậm chí phải rút lui khỏi thị trường Việt Nam. Đồng thời, quy định này hạn chế tình trạng lạm dụng nguyên tắc nộp đơn đầu tiên, ngăn chặn hành vi đầu cơ hoặc chiếm đoạt nhãn hiệu.


Như vậy, việc xác định và xử lý hành vi đăng ký nhãn hiệu với mục đích xấu không chỉ giúp ngăn ngừa tình trạng chiếm đoạt nhãn hiệu, mà còn nâng cao tính công bằng và minh bạch trong hệ thống sở hữu trí tuệ. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và cá nhân trong việc bảo vệ tài sản trí tuệ của mình, đồng thời góp phần nâng cao giá trị sáng tạo và hạn chế tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.

| 👁 18