1. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
2. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
3. Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng (Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014).
Khi ly hôn, đương sự không bắt buộc phải yêu cầu giải quyết về chia tài sản chung hoặc chỉ yêu cầu giải quyết một phần. Do đó, sau khi đã ly hôn, nếu có tranh chấp về tài sản chung, đương sự có quyền khởi kiện những vụ án về chia tài sản sau khi ly hôn.
Thứ nhất, về thẩm quyền giải quyết tranh chấp tài sản sau ly hôn.
Theo khoản 3 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì tranh chấp về chia tài sản sau khi ly hôn là vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Việc xác định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ tương tự như các vụ án dân sự khác.
Thứ hai, về phạm vi giải quyết tranh chấp tài sản sau ly hôn.
Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 và Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 thì vợ chồng có quyền thỏa thuận chia tài sản chung nhưng phải được Tòa án công nhận. Do đó, ở thời kỳ này, Tòa án phải xem xét toàn bộ tài sản chung của vợ chồng và phân chia hết số tài sản chung đó. Từ thời kỳ thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, đến nay là Luật Hôn Nhân và Gia đình năm 2014 thì pháp luật chỉ quy định nếu có tranh chấp thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Nhà nước còn khuyến khích việc đương sự tự phân chia tài sản thông qua quy định về việc được giảm hoặc không phải chịu án phí, lệ phí trong trường hợp tự phân chia tài sản khi ly hôn. Do đó, chỉ tài sản nào mà có đương sự yêu cầu thì Tòa án mới giải quyết. Vợ, chồng có thể chỉ yêu cầu giải quyết về một phần tài sản chung khi ly hôn, những tài sản chung khác họ có thể yêu cầu giải quyết bằng thỏa thuận phân chia tại Văn phòng công chứng hoặc có thể khởi kiện tranh chấp ở bất kỳ giai đoạn nào thành nhiều vụ án chia tài sản sau khi ly hôn.
Như vậy, Tòa án chỉ giải quyết yêu cầu phân chia tài sản sau ly hôn trong phạm vi đơn khởi kiện để đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự theo Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Thứ ba, về nguyên tắc áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp tài sản sau ly hôn.
Theo nguyên tắc chung về áp dụng pháp luật đối với vụ án hôn nhân và gia đình - nguyên tắc luật áp dụng là luật có hiệu lực ở thời điểm thực hiện hành vi, trừ trường hợp văn bản pháp quy cụ thể có quy định khác. Do đó, việc xác định pháp luật áp dụng để giải quyết tranh chấp tài sản sau ly hôn cũng thường phụ thuộc vào thời điểm giao dịch. Phạm vi tài sản có tranh chấp trong vụ án hôn nhân gia đình thường là rất nhiều loại tài sản, được hình thành trong nhiều thời điểm khác nhau. Vì vậy, trong vụ án chia tài sản của vợ chồng sau ly hôn, có thể phải áp dụng nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực thi hành ở thời điểm xét xử để xác định tính chất của tài sản cũng như các yếu tố liên quan khác.
Như vậy, để xác định tính chất của tài sản là tài sản chung hay tài sản riêng; xác định tài sản đó đã thuộc vợ chồng hay còn của người khác; giải quyết hậu quả của giao dịch đối với tài sản chung của vợ chồng thì phải áp dụng pháp luật ở thời điểm giao dịch. Tuy nhiên, khi đã xác định được tài sản để chia thì việc chia tài sản không phải là giải quyết hậu quả của giao dịch mà là thực hiện một hành vi pháp lý mới theo thẩm quyền nên phải áp dụng quy định về chia tài sản ở thời điểm xét xử.
Thứ tư, về nguyên tắc giải quyết chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Nguyên tắc giải quyết chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn được quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, hướng dẫn cụ thể tại Điều 7 của Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP. Gồm những vấn đề cần lưu ý sau:
- Trường hợp không có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng hoặc văn bản này bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
- Trong trường hợp có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đối với những vấn đề không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc bị vô hiệu thì áp dụng các quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4, 5, Điều 59 và các Điều 60, 61, 62, 63, 64 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
- Khi giải quyết ly hôn nếu có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu thì Tòa án xem xét, giải quyết đồng thời với yêu cầu chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Thứ năm, các bước phân chia tài sản sau ly hôn.
Bước 1: Xác định tài sản chung của vợ chồng phải phân chia.
Bước 2: Xác định giá trị phần tài sản chung được chia của vợ, chồng.
Bước 3: Chia hiện vật (có xem xét đến công sức đóng góp của mỗi người, điều kiện, hoàn cảnh, nghề nghiệp,...) và thanh toán chênh lệch.
Như vậy, dù pháp luật khuyến khích vợ chồng tự thỏa thuận, nhưng khi không đạt được sự đồng thuận, việc giải quyết tranh chấp tại tòa án là cần thiết. Do đó, để hạn chế rủi ro và bảo vệ quyền lợi, các bên cần hiểu rõ quy định pháp luật, thu thập đầy đủ chứng cứ và thực hiện đúng thủ tục pháp lý.