Luật Sở Hữu Trí Tuệ Là Gì?

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, quyền sở hữu trí tuệ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo vệ thành quả lao động trí tuệ và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Việc bảo hộ sở hữu trí tuệ không chỉ góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các cá nhân, tổ chức sáng tạo mà còn tạo động lực để phát triển kinh tế, văn hóa và khoa học công nghệ.

I. CỞ SỞ PHÁP LÝ


1. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 và 2022;


2. Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới năm 1967.


II. NỘI DUNG


1. Khái niệm sở hữu trí tuệ


Hiểu theo nghĩa rộng, sở hữu trí tuệ hay quyền sở hữu trí tuệ là định nghĩa cho quyền của chủ thể được nhà nước công nhận đối với những thành quả của hoạt động sáng tạo của con người trong đa dạng các khía cạnh. Pháp luật sở hữu trí tuệ hướng đến mục đích bảo vệ thành quả sáng tạo của các chủ thể đối với các tài sản trí tuệ được tạo ra bởi con người. Đồng thời, pháp luật sẽ phân định những quyền thuộc về các cá nhân, tổ chức tạo ra, cá nhân, tổ chức có quyền sở hữu sản phẩm trí tuệ đó và quyền thuộc về công chúng nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của từng chủ thể và khuyến khích khả năng sáng tạo, giữ gìn trật tự xã hội.


Thuật ngữ “sở hữu trí tuệ” (intellectual property) theo Điều 2 (viii) của Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (Công ước WIPO) ngày 14 tháng 7 năm 1967 bao gồm các quyền liên quan đến: tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; các buổi biểu diễn của nghệ sĩ biểu diễn, bản ghi âm và chương trình phát sóng; những phát minh trong mọi lĩnh vực nỗ lực của con người; những khám phá khoa học; kiểu dáng công nghiệp; nhãn hiệu, nhãn hiệu dịch vụ và tên thương mại và tên gọi; bảo vệ chống lại sự cạnh tranh không lành mạnh; và mọi quyền khác phát sinh từ hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học hoặc nghệ thuật.


Khoản 1 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 và 2022 định nghĩa quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.


2. Luật sở hữu trí tuệ là gì?


Thứ nhất, Luật Sở hữu trí tuệ tại Việt Nam.


Năm 2005, trong bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam phát triển nhanh chóng, cùng với mục tiêu gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), lần đầu tiên một văn bản riêng về luật sở hữu trí tuệ ra đời đó là “Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005” được ban hành ngày 29/11/2005 và có hiệu lực ngày 01/7/2006, bao gồm 222 điều khoản chia làm 6 phần. Đây là một thay đổi mang tính chất bước ngoặt trong lĩnh vực bảo hộ sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Ngay khi ra đời, văn bản này đã thể hiện sự tương thích mạnh mẽ với Bộ luật dân sự 2005 (dành riêng Phần thứ Sáu để điều chỉnh về các lĩnh vực của sở hữu trí tuệ).


Đến nay, văn bản Luật sở hữu trí tuệ đã trải qua ba lần sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện, bắt kịp sự phát triển của xã hội: 


- Lần thứ nhất là vào năm 2009, Quốc hội Việt Nam ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, bao gồm 30 điều khoản và bắt đầu có hiệu lực vào ngày 01/1/2010. 


- Lần thứ hai là vào năm 2019, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật số 42/2019/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/11/2019, chủ yếu liên quan đến các vấn đề nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, sáng chế,... Đồng thời, trước đó Bộ luật Dân sự 2015 đã không còn những nội dung điều chỉnh riêng liên quan đến sở hữu trí tuệ, điều này giúp các quy định về sở hữu trí tuệ được thống nhất và quy định tập trung trong một văn bản luật là Luật Sở hữu trí tuệ. 


- Lần thứ ba là vào năm 2022, Quốc hội Việt Nam thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2023. Theo đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022 bổ sung một số điểm mới như bổ sung nội dung về tác giả, đồng tác giả; Bổ sung quyền nhân thân của tác giả.


Trong tiến trình hình thành, phát triển các quy định pháp luật để quản lý lĩnh vực sở hữu trí tuệ, bên cạnh văn bản Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành tại Việt Nam, Chính phủ đã ban hành rất nhiều nghị định, thông tư hướng dẫn các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ.


Thứ hai, văn bản pháp luật quốc tế về sở hữu trí tuệ.


Về văn bản pháp luật quốc tế, một số văn bản quan trọng có thể kể đến như: Hiệp định TRIPS năm 1994 về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại; Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật; Công ước Rome năm 1961 về bảo hộ người biểu diễn, nhà xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng; Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ sở hữu công nghiệp; Công ước UPOV; Hiệp ước của WIPO năm 1996 về quyền tác giả (còn gọi là Hiệp ước WCT); Hiệp ước của WIPO năm 1996 về biểu diễn và bản ghi âm (còn gọi là Hiệp ước WPPT); Hiệp ước hợp tác về sáng chế (hay Hiệp ước PCT) năm 1970; Thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá; Nghị định thư liên quan đến thoả ước Madrid; Thỏa ước Lahay về đăng ký quốc tế KDCN; Công ước UPOV về bảo hộ giống cây trồng mới; Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Có thể thấy, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là vấn đề được quốc tế quan tâm. Đồng hành cùng sự phát triển của thế giới trong lĩnh vực này, Việt Nam đã tham gia nhiều điều ước quốc tế liên quan đến sở hữu trí tuệ. 


Đơn cử vấn đề bảo hộ quyền tác giả, một số điều ước quốc tế song phương và đa phương mà Việt Nam tham gia như: Hiệp định giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về thiết lập mối quan hệ về quyền tác giả, Hiệp định giữa Việt Nam và Thụy Sĩ về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, Công ước Berne năm 1886, Công ước Geneva về bảo hộ nhà sản xuất các bản ghi âm, Công ước Brussels về phân phối chương trình qua vị tỉnh, Công ước Rome ngày 26/10/1961 về bảo hộ quốc những người biểu diễn, Hiệp định về các khía cạnh sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại ngày 15/4/1994 trong khuôn khổ WTO (Hiệp định TRIPS), gần đây là Hiệp định về Quan hệ Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA).…


Tóm lại, sở hữu trí tuệ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức sáng tạo, đồng thời tạo động lực thúc đẩy đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ tại Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể, từ việc ban hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đến các lần sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn và phù hợp với các cam kết quốc tế và đặc điểm của luật sở hữu trí tuệ Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tích cực tham gia các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ, khẳng định sự hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, việc nâng cao nhận thức, thực thi hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ sẽ tiếp tục là một nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của các chủ thể sáng tạo và thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước.



| 👁 93