Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Những tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là những tranh chấp phát sinh từ những quan hệ pháp luật dân sự trong các lĩnh vực mà pháp luật dân sự điều chỉnh, bao gồm các loại việc như: dân sự (Điều 26 BLTTDS 2015), hôn nhân gia đình (Điều 28 BLTTDS 2015), kinh doanh thương mại (Điều 30 BLTTDS 2015), lao động (Điều 32 BLTTDS 2015).
Ngoài ra, Điều 34 BLTTDS 2015 còn quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức. Theo đó, khi giải quyết vụ án dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết. Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt nêu trên được xác định theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Xác định thẩm quyền của Tòa án theo cấp là xem xét Tòa án nhân dân cấp huyện hay Tòa án nhân dân cấp tỉnh sẽ có thẩm quyền giải quyết đối với một vụ án cụ thể.
Thứ nhất, thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện (Điều 35 BLTTDS 2015) được quy định như sau:
- Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây: Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này; Tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật này; Tranh chấp về lao động quy định tại Điều 32 của Bộ luật này.
- Những tranh chấp nêu trên mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 35 BLTTDS 2015.
- Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam theo quy định của Bộ luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh (Điều 37 BLTTDS 2015) được quy định như sau:
- Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc sau đây: Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này, trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 35 của Bộ luật này; Tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 3 Điều 35 của Bộ luật này.
- Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật này mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh tự mình lấy lên để giải quyết khi xét thấy cần thiết hoặc theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Theo khoản 1 Điều 39 BLTTDS 2015 thì thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:
- Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;
- Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;
- Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết.
Pháp luật quy định việc phân chia thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ nhằm tránh sự chồng chéo trong việc thực hiện thẩm quyền giữa các Tòa án cùng cấp; tạo thuận lợi cho những công đoạn giải quyết vụ án như đi lại, thu thập, kiểm tra, xuất trình chứng cứ của đương sự và của tòa án; đồng thời góp phần hạn chế việc khởi kiện kiện thiếu căn cứ nhằm mục đích gây khó khăn, phiền nhiễu cho bên bị khởi kiện.
Theo khoản 1 Điều 40 BLTTDS 2015 thì nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động trong các trường hợp sau đây:
- Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết;
- Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết;
- Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam hoặc vụ án về tranh chấp việc cấp dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết;
- Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết;
- Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác đối với người lao động thì nguyên đơn là người lao động có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết;
- Nếu tranh chấp phát sinh từ việc sử dụng lao động của người cai thầu hoặc người có vai trò trung gian thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi người sử dụng lao động là chủ chính cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi người cai thầu, người có vai trò trung gian cư trú, làm việc giải quyết;
- Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết;
- Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết;
- Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các bất động sản giải quyết.
Về cơ bản, thẩm quyền của tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn được áp dụng trong một số lợi ích của nguyên đơn cần phản được chú ý bảo vệ; áp dụng khi việc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ gặp khó khăn hoặc nếu để Tòa án có thẩm quyền theo lãnh thổ giải quyết sẽ không thuận lợi cho nguyên đơn.
Như vậy, BLTTDS 2015 đã quy định rõ ràng về thẩm quyền theo loại việc, cấp xét xử, lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn, giúp phân định trách nhiệm giữa các cấp Tòa án, tránh chồng chéo và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp. Việc nắm vững và áp dụng đúng các quy định về thẩm quyền không chỉ giúp đảm bảo tính minh bạch, công bằng trong tố tụng mà còn góp phần vào sự ổn định và phát triển của hệ thống pháp luật dân sự.